Đặc điểm một số bệnh thận mạn tính – phần 1: tiêu chuẩn bệnh thận mạn

– Theo một báo cáo của Mỹ cho thấy : 16,8% người trưởng thành (từ 20 tuổi trở lên) mắc bệnh thận mạn, hơn 500,000 bệnh nhân (BN) điều trị thận suy bằng lọc máu và ghép thận. Tỉ lệ hiện hành của BN bệnh thận mạn giai đoạn cuối (ESRD) ở Mỹ đang tăng lên, trong khi tỉ lệ mắc mới khá ổn định; điều đó cho thấy lượng BN ESRD tăng lên chủ yếu do tuổi thọ của các BN này ngày càng cao. Ở Việt nam chưa có nghiên cứu trên toàn quốc, tuy nhiên nghiên cứu theo từng vùng địa lý cho thấy tỷ lệ người mắc bệnh thận mạn ngày càng tăng cao.

– Một người được coi là mắc bệnh thận mạn khi có 1 trong hai tiêu chuẩn:

1. Là tổn thương cấu trúc hoặc chức năng thận kéo dài trên 3 tháng, có kèm hoặc không kèm giảm GFR, bao gồm tổn thương bệnh học thận (trên sinh thiết) hoặc bất thường trong xét nghiệm nước tiểu hoặc máu, hoặc trên chẩn đoán hình ảnh, hoặc

2. GFR nhỏ hơn 60ml/phút/ 1.73m2 kéo dài trên 3 tháng, có kèm hoặc không kèm tổn thương thận.

– Dựa vào yếu tố nào để đánh giá có tổn thương thận? Có nhiều dấu ấn, tuy nhiên trên thực hành lâm sàng chủ yếu dựa vào: Albumin niệu: là dấu ấn (marker) để đánh giá tổn thương thận, gợi ý đến tình trạng có tổn thương ở cầu thận gây tăng khả năng thấm cầu thận và làm albumin bị lọc và có trong nước tiểu. Có thể đánh giá có albumin trong nước tiểu hay không bằng: cách thu thập nước tiểu theo thời gian thường theo 24h, que nhúng hoặc phổ biến nhất là tỉ số albumin/creatinin niệu (ACR) mẫu nước tiểu ngẫu nhiên. ACR bình thường < 10mg/g.

Quản trị viên

Vì một tương lai không có suy thận mạn

Post Comment