MỤC LỤC BÀI VIẾT
VIÊM ỐNG KẼ THẬN MẠN LÀ GÌ?
Viêm ống kẽ thận mạn là tổn thương viêm hệ thống mô kẽ và ống thận với đặc điểm khởi phát âm thầm, tiến triển chậm và hậu quả cuối cùng là dẫn đến bệnh thận mạn giai đoạn cuối. Một số trường hợp viêm ống kẽ thận cấp tính có thể chuyển thành mạn tính, đồng thời, có thể tồn tại song song tổn thương viêm ống kẽ thận cấp tính và mạn tính trên cùng một tiêu bản sinh thiết thận.
Vì tổn thương viêm ống kẽ thận có thể là nguyên phát (giới hạn tại hệ thống ống kẽ thận, trong khi hệ thống cầu thận và mạch máu bình thường) hoặc thứ phát (tổn thương liên quan đến các bệnh lý cầu thận và mạch máu), do đó, để tiện cho việc diễn giải, trong bài này, chúng tôi chủ yếu tập trung đề cập đến viêm ống kẽ thận mạn nguyên phát.
NGUYÊN NHÂN GÂY BỆNH BAO GỒM?
1. Viêm thận bể thận cấp/mạn, leptospira, HIV/AIDS, Lao, Bệnh do virus Hanta
2. Sarcoidosis, hội chứng Sjogren, Lupus ban đỏ, tăng cryoglobulin máu, hội chứng TINU, thải ghép mạn tính, bệnh thận IgG4
3. Chì, thủy ngân, cadmium
4. Tăng acid uric máu, tăng acid uric niệu, tăng calci máu, tăng calci niệu, tăng oxalat niệu, hạ kali máu, tăng acid methylmalonic máu
5. Đa u tủy xương, bệnh lắng đọng chuỗi nhẹ, amyloidosis, bệnh hồng cầu hình liềm
6. Bệnh thận đa nang di truyền trội, tăng cystin máu di truyền, suy cận giáp di truyền, viêm kẽ thận mạn di truyền với nang tủy thận, hội chứng Dent,…
7. U, sỏi, tắc nghẽn đường ra tại bàng quang, bệnh thận trào ngược
8. Bệnh thận Balkan, bệnh thận do thảo dược (chứa acid aristolochic), bệnh thận do tia xạ, thiếu máu, tăng huyết áp
CHẨN ĐOÁN XÁC ĐỊNH BỆNH RA SAO?
Dựa trên biểu hiện lâm sàng
Do bệnh khởi phát âm thầm và tiến triển mạn tính (thường trong nhiều năm), do đó, người bệnh phần lớn không có triệu chứng đặc hiệu và vô tình được chẩn đoán bệnh thông qua các xét nghiệm cận lâm sàng sàng lọc bệnh thận mạn tính hoặc tìm kiếm các nguyên nhân của tăng huyết áp.
Triệu chứng lâm sàng của viêm ống kẽ thận mạn phụ thuộc vào căn nguyên gây bệnh và mức độ tổn thương trên thận.
Khai thác tiền sử cần chú ý các đặc điểm sau:
- Có thời gian phơi nhiễm kéo dài với các thuốc giảm đau NSAIDs, thuốc nam hoặc các hóa chất công nghiệp hay không?
- Có tiền sử bệnh máu ác tính hoặc ung thư đang điều trị hóa chất hay không?
- Có tiền sử sỏi tiết niệu, phẫu thuật tiết niệu hoặc nhiễm khuẩn tiết niệu tái phát nhiều lần hay không?
- Tiền sử chấn thương? Bệnh lý chuyển hóa? Bệnh lý mạn tính?
Khám lâm sàng cần chú ý các triệu chứng: - Tiểu đêm, tiểu nhiều lần trong ngày do giảm khả năng cô đặc nước tiểu
- Các triệu chứng gợi ý tắc nghẽn đường niệu hoặc nhiễm trùng: chạm thận, bập bềnh thận, vỗ hông lưng, các điểm đau niệu quản, cầu bàng quang
- Các triệu chứng bệnh thận mạn tính: Thiếu máu, mệt mỏi, chán ăn, nôn, buồn nôn…
- Các dấu hiệu gợi ý các bệnh lý hệ thống như Lupus, tăng cryoglobulin máu, sarcoidosis, amyloidosis…
Dựa trên cận lâm sàng
Rối loạn chức năng ống thận:
Phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của tổn thương và vị trí tổn thương
Tác nhân gây tổn thương ống lượn gần như kim loại nặng, lắng đọng chuỗi nhẹ thường gây ra toan hóa ống thận typ 2, hoặc hội chứng Fanconi (tăng phosphat niệu, đường niệu (+), aminoacid niệu, protein niệu của ống thận).
Tác nhân gây tổn thương quai Henle và ống góp như thuốc giảm đau, tăng calci máu/niệu, bệnh thận do tinh thể urat, bệnh hồng cầu hình liềm thường gây rối loạn khả năng tái hấp thu Natri và nước, dẫn đến đái tháo nhạt nguồn gốc thận sau này.
Tác nhân gây tổn thương ống lượn xa (bệnh lắng đọng chuỗi nhẹ, viêm thận bể thận mạn, bệnh thận trào ngược) có thể gây toan hóa ống thận typ 1, hạ Kali máu, hình thành sỏi thận, lắng đọng calci tại thậnTrong phần lớn các trường hợp viêm ống kẽ thận mạn, xuất hiện tổn thương của cả 3 vị trí trên.
Tổng phân tích nước tiểu: protein niệu có thể xuất hiện, thường dưới 1.5 g/ngày và không vượt quá 2.5 g/ngày. Có thể có bạch cầu niệu, trụ bạch cầu, hồng cầu niệu.
Mức lọc cầu thận (tính theo Creatinin) có xu hướng giảm dần theo thời gian mắc bệnh
Chẩn đoán hình ảnh
Bao gồm như siêu âm, UIV, cắt lớp vi tính… có thể cho thấy hình ảnh tắc nghẽn đường tiết niệu, trào ngược bàng quang niệu quản, sỏi thận, calci hóa ở thận… Ở giai đoạn muộn hơn, có thể thấy hình ảnh thận teo nhỏ kích thước, nhu mô mỏng, bờ thận gồ ghề.
Sinh thiết thận
Có thể được chỉ định để chẩn đoán xác định viêm ống kẽ thận mạn và nguyên nhân của nó. Sinh thiết thận không phải là chỉ định bắt buộc, đặc biệt khi kích thước thận đã teo nhỏ và xơ hóa nhiều trên chẩn đoán hình ảnh. Chỉ định sinh thiết thận nên được đặt ra khi kích thước và nhu mô thận còn tương đối, các xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh không xác định được rõ nguyên nhân tổn thương tại thận, chức năng thận xấu đi, không đáp ứng với điều trị bảo tồn thông thường.