Thuốc lợi tiểu – không thể tùy tiện sử dụng
Cần luôn cảnh giác với biến chứng tụt huyết áp tư thế và rối loạn điện giải vì đây là nguyên nhân quan trọng gây nhập viện và tử vong ở người cao tuổi.







Bệnh Thận – tiết niệu có một số dấu hiệu điển hình như đái máu, phù dưới da, … Trong trường hợp giai đoạn sớm, bệnh Thận – tiết niệu diễn biến âm thầm, phần nhiều trường hợp không có triệu chứng. Vì vậy, vấn đề chủ động khám đóng vai trò quan trọng để phát hiện và điều trị sớm, giảm tỷ lệ biến chứng suy thận mạn không thể điều trị khỏi.
Nhiều bệnh thận không có triệu chứng, phát hiện sớm có thể "sống chung hòa bình".
Nhiều bệnh thận có thể di truyền qua các thế hệ như thận đa nang, hội chứng Alport
Sau điều trị ngoại khoa như tán sỏi, mổ lấy sỏi... Có dấu hiệu nghi ngờ bệnh thận trước đây
Một số bệnh toàn thân như tăng huyết áp, đái tháo đường có thể sẽ gây hại cho thận
Phù có thể xuất hiện ở chân hoặc mặt. Có thể đang bị phù hoặc xuất hiện trước đây
Có thể đái máu đại thể (mắt thường nhìn thấy) hoặc vi thể (phải xét nghiệm)
Tiểu khó, tiểu rắt, tiểu rát, tiểu nhiều lần, tiểu xong vẫn muốn đi tiếp, tiểu nhiều bọt ...
Mệt mỏi, hoa mắt chóng mặt, niêm mạc nhợt, da sạm ngứa không rõ nguyên nhân ...
Trước đây hoặc hiện tại, thiếu máu, protein niệu, hồng cầu niệu, creatinin máu tăng

Quý vị vui lòng chuẩn bị kỹ càng trước khi đi khám, đặc biệt đối với quý vị là người ngoại thành Hà Nội, để quá trình khám chữa bệnh đạt được hiệu quả tốt nhất
Quý vị cần hiểu đúng một số khái niệm về suy thận mạn và bệnh thận mạn. Việc hiểu đúng này đóng vai trò quan trọng trong việc tuân thủ điều trị, từ đó sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả của quá trình điều trị.
BẢN CHẤT
Suy thận mạn là giảm chức năng thận không hồi phục (không thể chữa khỏi). Mục tiêu của điều trị là làm chậm quá trình suy thận nặng hơn.
NGUYÊN NHÂN
Chưa rõ nguyên nhân. Có thể do bệnh lý tại thận (hội chứng thận hư, viêm cầu thận…) hoặc bệnh lý toàn thân (Đái đường, tăng huyết áp…)
PHÒNG NGỪA
Phòng ngừa bệnh thận. Điều trị bệnh lý toàn toàn thân ổn định. Chủ động khám sức khỏe. Tuân thủ điều trị nghiêm túc
Suy thận mạn là chức năng thận giảm, chức năng này sẽ giảm thêm theo thời gian, tức là mức độ suy thận mạn sẽ nặng dần. Đến giai đoạn cuối, mức độ suy thận mạn nặng, thận không đủ khả năng đảm bảo chức năng, khi đó sẽ cần các phương pháp điều trị thay thế.
THẬN NHÂN TẠO
Máu được rút ra từ mạch máu và đi qua một quả lọc tổng hợp, được gọi là quả lọc máu. Trong quả lọc, máu được làm sạch trước khi đưa trở lại cơ thể bệnh nhân.
LỌC MÀNG BỤNG
Lọc màng bụng hay còn gọi là thẩm phân phúc mạc là phương pháp sử dụng chính màng bụng của người bệnh làm màng lọc thay thế cho thận đã suy yếu.
GHÉP THẬN
Ghép thận là phẫu thuật đưa quả thận khỏe mạnh (lấy từ bệnh nhân chết não) để ghép vào cơ thể người nhận (suy thận nặng). Thận ghép thường nằm trong hố chậu..

Bệnh thận IgA là sự lắng đọng của phức hợp miễn dịch IgA ở cầu thận, bệnh có nhiều triệu chứng, biểu hiện hay gặp nhất là đái máu

Viêm thận lupus là một biến chứng thường gặp ở những người bị lupus ban đỏ hệ thống Lupus. Lupus là một bệnh tự miễn

Bệnh thận đái tháo đường là tình trạng xơ cứng và xơ hóa cầu thận do sự rối loạn chuyển hoá và huyết động ở bệnh đái tháo đường.

Phụ nữ đã mắc bệnh thận cần cân nhắc trước khi mang thai bởi bệnh thận có thể tiến triển nặng hơn và gây ra nhiều biến chứng

Thận hư là một hội chứng lâm sàng và sinh hóa xảy ra ở nhiều bệnh cầu thận, được đặc trưng bởi protein niệu nhiều

Đái máu là tình trạng xuất hiện hồng cầu trong nước tiểu. Đái máu có thể nhìn thấy bằng mắt hoặc phải xét nghiệm
Cần luôn cảnh giác với biến chứng tụt huyết áp tư thế và rối loạn điện giải vì đây là nguyên nhân quan trọng gây nhập viện và tử vong ở người cao tuổi.
Ở người cao tuổi, phù nhẹ quanh mắt cá chân thường bị quy cho suy tĩnh mạch hoặc suy tim. Các biểu hiện mệt mỏi, chán ăn, sút cân do hội chứng urê máu cao lại dễ bị coi là “triệu chứng tuổi già”. – Do vậy, các dấu hiệu cảnh báo beejnh cầu thận thường bị bỏ qua hoặc phát hiện muộn.
Nhiều người đánh giá protein niệu chỉ bằng que thử (dipstick), nhưng kết quả này phụ thuộc vào độ cô đặc nước tiểu (tỷ trọng, pH) và chủ yếu phát hiện albumin. BN có protein niệu không do albumin (như Bence Jones, globulin, myoglobin) có thể âm tính. Do đó, cần định lượng protein 24 giờ hoặc tỉ số ACR/PCR để xác định mức độ thực sự của protein niệu.
Theo tôi, không phải tất cả người bệnh có bất thường thận đều cần khám bác sĩ chuyên khoa Thận – Tiết niệu. Một số trường hợp nguy cơ rất thấp có thể được theo dõi an toàn bởi bác sĩ đa khoa hoặc bác sĩ nội khoa. Trong chương trình đạo tạo đều có những học phần về chuyên khoa thận mà tất cả các bs đa khoa đã được học để kiến thức thục hành đủ trên lâm sàng
Siêu âm thận bình thường không loại trừ bệnh cầu thận. Siêu âm chỉ nhìn thấy kích thước – nhu mô – hình dạng; không nhìn được cầu thận, không phát hiện được protein niệu, đái máu vi thể hay giảm mức lọc cầu thận (MLCT). Để tầm soát bệnh thận, xét nghiệm nước tiểu + creatinine mới là quan trọng nhất. Ở Việt Nam, đa số bệnh nhân nhầm lẫn “siêu âm bình thường = thận bình thường”.
Nếu có thể, nên tiêm trước khi bắt đầu điều trị ức chế miễn dịch 2–4 tuần.
Nếu đang điều trị: Với corticosteroid liều cao: nên đợi giảm liều về <10 mg prednisolone/ngày (nếu lâm sàng cho phép). Với MMF, azathioprine, CNI: vẫn có thể tiêm vắc xin bất hoạt bình thường. Với rituximab : Tiêm ít nhất 4 tuần trước truyền rituximab; Nếu đã truyền, nên đợi 4–6 tháng rồi tiêm mới có đáp ứng tốt.