Sai lầm thường mắc phải khi phân tích kết quả xét nghiệm nước tiểu

Sai lầm thường mắc phải khi phân tích kết quả xét nghiệm nước tiểu

Diễn giải kết quả xét nghiệm nước tiểu là một kỹ năng cơ bản nhưng lại thường bị xem nhẹ trong thực hành lâm sàng. Nhiều sai lầm xuất hiện do không nắm rõ nguyên lý, yếu tố ảnh hưởng, hoặc bối cảnh lâm sàng khi đánh giá kết quả cuả BN. Dưới đây là một số sai lầm thường gặp nhất trên thực tế

1. Chỉ dựa vào que thử nước tieeu mà không làm xét nghiệm định lượng

– Nhiều người đánh giá protein niệu chỉ bằng que thử (dipstick), nhưng kết quả này phụ thuộc vào độ cô đặc nước tiểu (tỷ trọng, pH) và chủ yếu phát hiện albumin. BN có protein niệu không do albumin (như Bence Jones, globulin, myoglobin) có thể âm tính. Do đó, cần định lượng protein 24 giờ hoặc tỉ số ACR/PCR để xác định mức độ thực sự của protein niệu.

2. Bỏ qua yếu tố ảnh hưởng đên kết quả nước tiểu giữa dòng.

– Lấy mẫu sai (đầu dòng, cuối dòng, hoặc mẫu sau vận động, sau giao hợp) dễ gây dương tính giả bạch cầu niệu hoặc hồng cầu niệu. Mẫu lấy không đúng thời điểm hoặc không được vận chuyển sớm có thể làm phân hủy tế bào và nitrit. Nguoiwi đọc cần xác định thời điểm lấy mẫu, phương pháp và bảo quản khi nhận định kết quả.

3. Hiểu sai hồng cầu niệu: nhầm giữa hồng cầu biến dạng và không biến dạng

– Hồng cầu biến dạng (dysmorphic RBC) gợi ý nguồn gốc cầu thận, trong khi RBC nguyên vẹn thường từ đường tiết niệu dưới. Tuy nhiên, nhiều nơi không soi tươi hoặc dùng kính hiển vi không đủ độ phân giải. Bác sĩ có thể nhầm nhiễm khuẩn niệu với bệnh cầu thận. Cần soi tươi cặn nước tiểu hoặc soi pha tương phản khi nghi ngờ bệnh cầu thận.

4. Bỏ qua bạch cầu niệu âm tính giả hoặc dương tính giả và hiểu sai nitrit niệu

– Bạch cầu niệu dương tính có thể không đồng nghĩa với nhiễm khuẩn (do viêm thận kẽ, viêm thận lupus, viêm thận mô kẽ do thuốc). Ngược lại, âm tính giả gặp trong mẫu nước tiểu acid mạnh, tỷ trọng cao hoặc nhiễm trùng do vi khuẩn không sản sinh leukocyte esterase.
Nhiều người xem nitrit niệu dương tính là nhiễm khuẩn niệu chắc chắn. Tuy nhiên, nitrit chỉ phát hiện vi khuẩn Gram âm chuyển hóa nitrat gây nitrit (như E. coli). Các tác nhân như Enterococcus, Pseudomonas, Staphylococcus saprophyticus không tạo nitrit gây âm tính giả.

5. Bỏ qua tầm quan trọng của tỉ trọng và pH nước tiểu và trụ niệu

– BN có pH > 8 có thể làm hồng cầu và trụ niệu bị tan, còn tỉ trọng thấp (<1.005) phản ánh giảm khả năng cô đặc, gợi ý tổn thương ống thận. Nhiều bác sĩ chỉ chú ý phần “protein” hay “glucose” mà quên rằng pH và tỉ trọng là chỉ dấu chức năng ống thận sớm.

– Trụ hạt, trụ hồng cầu hay trụ bạch cầu có ý nghĩa chẩn đoán cao. Tuy nhiên, nhiều nơi coi đó là “cặn bẩn” hoặc không soi kỹ. Trụ hồng cầu là dấu hiệu đặc hiệu của viêm cầu thận cấp hoặc lupus nephritis. Không nhận diện được trụ khiến bỏ sót chẩn đoán bệnh cầu thận tiềm ẩn.

6. Không đối chiếu kết quả nước tiểu với triệu chứng lâm sàng của BN và bỏ qua yếu tố thuốc và bệnh toàn thân

– Một xét nghiệm nước tiểu bất thường khong đồng nghĩa bệnh lý thật sự nếu không có triệu chứng, ví dụ: tiểu máu vi thể tạm thời sau vận động, protein niệu tư thế, hay tiểu dưỡng chất ở người sốt. – Ngược lại, nhiễm khuẩn niệu thật sự cần được xác định bằng cấy nước tiểu ≥10⁵ CFU/mL cùng triệu chứng lâm sàng.

– Vitamin C liều cao gây âm tính giả nitrit và glucose niệu; thuốc kháng sinh, hóa chất sát khuẩn có thể làm thay đổi phản ứng màu trên que thử. Ngoài ra, các bệnh như tiêu cơ vân, bệnh gan, nhiễm ceton… cũng gây dươg tính giả protein hoặc máu niệu.

– Một lỗi phổ biến là chẩn đoán dựa vào một mẫu duy nhất, trong khi nước tiểu thay đổi theo giờ, bữa ăn, tư thế và thuốc. Ví dụ, protein niệu thoáng qua có thể hết sau vài ngày, còn protein niệu dai dẳng mới có giá trị tiên lượng. Cần xét nghiệm lại sau 1–2 tuần để xác nhận.

Theo tôi, việc diễn giải xét nghiệm nước tiểu cần đặt trong bối cảnh lâm sàng, xét nghiệm bổ sung, và kỹ thuật thu mẫu chuẩn. Do đó người đọc cần phối hợp giữa que thử, soi cặn, định lượng, và cấy vi khuẩn để đưa ra kết luận chíh xác. Việc đọc sai có thể dẫn đến bỏ sót bệnh cầu thận hoặc lạm dụng kháng sinh không cần thiết đây hai lỗi cực kỳ thường gặp trong thực hành lâm sàng hiện nay.

Quản trị viên

Vì một tương lai không có suy thận mạn