5 sai lầm dễ mắc khiến bệnh cầu thận nặng thêm

5 sai lầm dễ mắc khiến bệnh cầu thận nặng thêm

Trải qua nhiều năm khám chữa bệnh và tiếp xúc với rất nhiều BN tôi nhận thấy có một số quan niệm sai lầm của người bệnh mắc bệnh cầu thận, dẫn đến những hậu quả đáng tiếc tôi xin phép liệt kê ra đây để anh chị em có thể tránh. Có thể có bạn đã nhận thấy mình là một trong nhưngx ví dụ dưới đây;

1. TIN RẰNG KHI KHÔNG PHÙ, SIÊU ÂM THẬN BÌNH THƯỜNG LÀ KHÔNG CÓ BỆNH THẬN

– Không phù không có nghĩa là không bệnh. Hầu hết các bệnh cầu thận giai đoạn sớm không gây phù như: bệnh thận IgA , tổn thương tối thiểu, xơ hoá cầu thận từng phần, khu trú (FSGS) thể nhẹ, bệnh thận màng giai đoạn sớm, lupus thận giai đoạn đầu.

– Siêu âm thận bình thường không loại trừ bệnh cầu thận. Siêu âm chỉ nhìn thấy kích thước – nhu mô – hình dạng; không nhìn được cầu thận, không phát hiện được protein niệu, đái máu vi thể hay giảm mức lọc cầu thận (MLCT). Để tầm soát bệnh thận, xét nghiệm nước tiểu + creatinine mới là quan trọng nhất. Ở Việt Nam, đa số bệnh nhân nhầm lẫn “siêu âm bình thường = thận bình thường”.

– Hậu quả thực tế: 60–70% bệnh nhân đến viện khi bệnh đã tiến triển nặng, protein niệu cao, MLCT giảm rõ. Nếu dựa vào phù hoặc siêu âm, bệnh nhân sẽ bỏ qua giai đoạn vàng có thể điều trị triệt để.

– Ví dụ BN cụ thể : BN nam 32 tuổi: sức khỏe bình thường, không phù, siêu âm bình thường. Khi XN phát hiện protein niệu 1,2 g/ngày, sinh thiết xác định bệnh thận IgA. Nếu tiếp tục tin vào siêu âm, anh đã trễ 2–3 năm.

– Thông điệp nhấn mạnh: Không phù không nghĩa là thận khỏe. Siêu âm “thận đẹp” không nghĩa là không bệnh.

2. SỢ SINH THIẾT THẬN KHI CÓ CHỈ ĐỊNH NÊN TRÌ HOÃN HOẶC TỪ CHỐI

– BN sợ đau, sợ chảy máu nên trì hoãn sinh thiết dù có đái máu vi thể, protein niệu cao, MLCT giảm. Sinh thiết là tiêu chuẩn vàng để phân loại chính xác: Bệnh thận IgA, tổn thương tối thiểu, xơ hoá cầu thận từng phần, khu trú (FSGS), bệnh thận màng (MN), lupus thận (LN), và đánh giá mức độ hoạt tính – mức độ xơ hoá để quyết định phác đồ. Tỷ lệ BC nặng tại các trung tâm lớn chỉ 0,5–1% thấp hơn nhiều thủ thuật nội soi khác.

– Tại Việt Nam, sinh thiết được thực hiện an toàn tại các bệnh viện lớn, có theo dõi sau sinh thiết 24–48 giờ. Đa số BC chỉ ở mức nhẹ như đau lưng hoặc tiểu máu nhẹ và tự hết. Hậu quả thực tế: Trì hoãn sinh thiết, làm trì hoãn điều trị dễ gây cầu thận xơ hoá dần, khong hồi phục. Có BN mất 30–40% chức năng thận chỉ sau vài tháng chần chừ.

– Ví dụ: BN nữ 45 tuổi: protein niệu 3 g/ngày nhưng trì hoãn sinh thiết 4 tháng. Khi quay lại, MLCT chỉ còn 45 ml/phút – cơ hội điều trị lui bệnh gần như biến mất.

– Thông điệp nhấn mạnh: Trì hoãn sinh thiết = đánh mất cơ hội cứu cầu thận.

3. TỰ ĐIỀU CHỈNH THUỐC, TỰ ĐIỀU TRỊ VÀ TỰ NGƯNG THUỐC

– Tự ý dùng corticoid (prednisolone): tăng liều khi phù nhiều, giảm liều khi thấy “đỡ bệnh”, ngừng đột ngột gây tái phát cực mạnh, biến chưng suy thượng thận cấp, nhiễm trùng nặng.

– Bỏ thuốc điều trị HA và protein niệu: ACEi/ARB, SGLT2i là thuốc giúp giảm tiến triển bệnh cầu thận; bỏ uống vài tuần MLCT có thể tụt nhanh 2–5 lần. Dùng NSAIDs và thuốc độc thận: ibuprofen, diclofenac, thuốc cảm cúm, thuốc Nam chứa NSAIDs tự nhiên, PPI kéo dài làm giảm dòng máu thận, tăng protein niệu, gây đợt tiến triển cấp của FSGS, IgA hoặc lupus thận.

– Nhấn mạnh: đau đầu, cảm cúm, đau vai gáy cũng không được tự uống NSAIDs cần trao đổi bs. Hậu quả thực tế: Bệnh đang ổn trở thành “cơn bão viêm cầu thận”, gây tắc mạch do huyết khối, suy thận cấp, nhập viện khẩn cấp.

– Ví dụ: BN nam 29 tuổi (tổn thương tối thiểu – MCD): tự giảm Pred 40 mg xuống 10 mg trong 1 tuần vì thấy đỡ phù. Ba tuần sau tái phát dữ dội, phải nhập viện điều trị lại từ đầu.

– Thông điệp nhấn mạnh: Một viên thuốc sai có thể làm mất nhiều tháng điều trị.

4. KHÔNG THEO DÕI XN KHÔNG TÁI KHÁM ĐÚNG LỊCH

– BN chỉ đi tái khám khi thấy phù nhiều – khó thở – mệt kiệt sức.Không kiểm tra creatinine, eGFR, protein niệu mỗi 1–3 tháng. Không theo dõi kali, đường huyết, lipid; không làm tế bào máu, men gan, nồng độ thuốc CNI khi dùng ức chế miễn dịch. Nên ghi rõ lịch tái khám dễ nhớ:“1–3 tháng/lần đối với hầu hết bệnh cầu thận.” Chú ý: “Thận hỏng 50% cũng không đau , không sốt , không phù.” Hậu quả thực tế: bệnh âm thầm phá huỷ cầu thận từng ngày mà BN không hề biết, khi phát hiện creatinine tăng gấp đôi hoăc ba thậm chí không thể phục hồi.

– Ví dụ:BN nữ 34 tuổi FSGS: bỏ theo dõi 6 tháng. Khi quay lại: protein niệu gấp 5, MLCT giảm mạnh và mất hoàn toàn khả năng lui bệnh.

– Thông điệp nhấn mạnh: Không tái khám = để bệnh thận tiến triển trong im lặng.

5. NHẬN THỨC SAI VỀ BẢN CHẤT BỆNH NÊN UỐNG THUỐC THẢO DƯỢC VÀ “THUỐC TỄ” KHÔNG RÕ NGUỒN GÔC

– Nhận thức sai về bản chất bệnh – tin thảo dược, thuốc tễ không rõ nguồn gốc, xem nhẹ ăn uống lối sống. Nghĩ rằng “hết phù = khỏi bệnh”, trong khi:Tổn thương tối thiểu (MCD): tái phát 60–80%.Xơ hoá cầu thận từng phần, khu trú (FSGS): tái phát 40–50%,Bệnh thận màng (MN): tái phát theo chu kỳ, bệnh thận IgA: protein niệu dao động cả đời. Tin thuốc Nam – Đông y không rõ nguồn gốc, TPCN “giải độc thận”, “bổ thận” có thể chứa corticoid giấu mặt, NSAIDs tự nhiên, kim loại nặng (Arsen, Thủy ngân) gây suy thận cấp.

– Xem nhẹ chế độ ăn: không hạn muối (nên 2–3 g natri/ngày), ăn protein quá mức, lạm dụng bia rượu, không kiểm soát cân nặng, đường huyết, huyết áp. Hậu quả thực tế: bệnh tiến triển nhanh 1,5–3 lần nếu không tuân thủ chế độ ăn và lối sống.

– Ví dụ: BN nam 58 tuổi (bệnh thận màng): uống thuốc Nam “giải độc thận” 10 ngày creatinine từ 134 lên đến 600 μmol/L. Chẩn đoán: suy thận cấp do thảo dược không rõ nguồn gốc.

– Thông điệp nhấn mạnh: Thuốc Nam không rõ nguồn gốc là một trong những nguyên nhân gây suy thận nặng lên.

Quản trị viên

Vì một tương lai không có suy thận mạn